Chuyển đến nội dung chính

Thanh Tú (diễn viên) – Wikipedia tiếng Việt


Vũ Thanh Tú
Sinh
13 tháng 8, 1944 (74 tuổi)
Hà Nội
Vai diễn đáng chú ý
Nhu (Sao tháng Tám)
Chồng
Phạm Kỳ Nam


Thanh Tú (tên thật Vũ Thanh Tú, sinh 13 tháng 8 năm 1944) là một nữ diễn viên điện ảnh và kịch nói Việt Nam.

Thanh Tú sinh năm 1944 trong một gia đình trí thức ở Hà Nội. Bà là con thứ hai trong một gia đình có 8 anh chị em, cha bà nguyên là Thứ trưởng Bộ Xây dựng. Năm 9 tuổi, bà được gửi đi học tại Trung Quốc trong chương trình dành cho con em cán bộ cấp cao. Trở về nước, Thanh Tú học ở trường THPT Chu Văn An, sau đó đi học Đại học Kiến trúc. Đang học trường Kiến trúc, bà bỏ đi sang thi vào Đoàn văn công Hà Nội. Từ năm 1960 đến 1964, bà theo học và tốt nghiệp tại tốt nghiệp Trường Sân khấu Hà Nội (nay là Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội). Bà trở thành một diễn viên kịch, từng thành công với những vai diễn như: Hương Giang trong vở Tiền tuyến gọi do đạo diễn Trần Hoạt dàn dựng, Tanhia trong vở kịch cùng tên, đạt kỉ lục với hơn 1200 suất diễn; quận chúa Minfo trong Âm mưu và tình yêu, đây cũng là vở diễn thành công nhất của bà.

Năm 1966, Thanh Tú đóng bộ phim đầu tiên với vai Thảo trong bộ phim Biển lửa của đạo diễn Phạm Kỳ Nam. Bà kết hôn với đạo diễn Phạm Kỳ Nam trong năm đó. Năm 1969, bà tiếp tục thể hiện vai cô diễn viên Hương Giang trong bộ phim chuyển thể từ vở kịch cùng tên Tiền tuyến gọi, do Phạm Kỳ Nam đạo diễn. Sau Tiền tuyến gọi, bà tiếp tục vào vai mẹ bé Hà trong phim Em bé Hà Nội (1974), vai chị Hảo trong Vùng trời (1975). Năm 1976, bà giành được thành công lớn với vai Nhu trong bộ phim Sao tháng tám của đạo diễn Trần Đắc. Với vai diễn này, bà đã giành giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất ở Liên hoan phim Việt Nam lần thứ IV năm 1977, được Ủy ban phụ nữ toàn Liên bang Xô Viết trao giải đặc biệt khi dự Liên hoan phim Moskva. Sau thành công quá lớn của vai Nhu, bà từ chối tham gia các dự án điện ảnh khác cho đến năm 1984.

Từ năm 1979 đến 1983, bà theo học khoá đạo diễn sân khấu ở trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội. Bà là đạo diễn của nhà hát kịch, từng đạo diễn các vở như Đỉnh cao và vực thẳm (1989), Cơ đấm (1991), Thị trường trái tim (1993), Thoát vòng tục lụy (1994). Bà trở lại điện ảnh từ năm 1984 với những bộ phim Tình yêu và khoảng cách, Truyện cổ tích cho tuổi 17, Thời hiện tại, Gánh hàng hoa, Mối tình sau song sắt. Tuy nhiên những vai diễn này không vượt qua được đỉnh cao là Nhu trong Sao tháng Tám.

Ngoài công việc diễn xuất, bà còn là một giảng viên tham gia đào tạo các diễn viên truyền hình, phát thanh viên và MC.

Cùng với các nghệ sĩ, đạo diễn Ngọc Quỳnh, Ngô Mạnh Lân, Phương Thanh, Hải Ninh, Trà Giang, Nguyễn Hồng Sến, Trần Vũ, Bùi Đình Hạc, Bạch Diệp, Lâm Tới, bà có tên trong Bách khoa toàn thư điện ảnh Liên Xô[1][2]. Bà đã được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.





Phim[sửa | sửa mã nguồn]


Kịch[sửa | sửa mã nguồn]





Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Amphoe Si Mueang Mai – Wikipedia tiếng Việt

Si Mueang Mai (tiếng Thái: ศรีเมืองใหม่ ) là một huyện ( Amphoe ) ở đông bắc của tỉnh Ubon Ratchathani, Isan, Thái Lan northeastern Thái Lan. Huyện này giáp các huyện sau (từ phía đông nam theo chiều kim đồng hồ) Khong Chiam, Phibun Mangsahan, Tan Sum, Trakan Phuet Phon và Pho Sai. Về phía đông qua sông Mê Kông là Salavan của Lào. Huyện này được chia thành 11 phó huyện ( tambon ), các phó huyện này lại được chia ra 118 làng ( muban ). Si Mueang Mai là thị trấn ( thesaban tambon ) duy nhất của huyện, nằm trên một phần địa giới của tambon Na Kham. STT Tên Tên Thái Số làng Dân số 1. Na Kham นาคำ 15 12.449 2. Kaeng Kok แก้งกอก 7 4.499 3. Ueat Yai เอือดใหญ่ 8 3.712 4. Warin วาริน 11 5.475 5. Lat Khwai ลาดควาย 8 4.581 6. Song Yang สงยาง 14 6.106 7. Ta Bai ตะบ่าย 12 4.175 8. Kham Lai คำไหล 18 9.426 9. Nam Thaeng หนามแท่ง 11 7.274 10. Na Loen นาเลิน 7 3.409 11. Don Yai ดอนใหญ่ 7 4.337

Chi Dó trầm – Wikipedia tiếng Việt

Dó trầm hay dó bầu , trầm dó , trầm hương tên gọi chung cho một chi thực vật thuộc họ Trầm gồm 15 loài. [1] sống ở châu Á trong các khu vực rừng mưa của Indonesia, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Malaysia, bắc Ấn Độ, Philippines, Borneo và New Guinea. Cây cao 6–20 m, lá dài 5–11 cm và rộng 2–4 cm. Hoa màu xanh vàng, quả gỗ dài 2,5–3 cm. Cây trầm hương có thân cây to, lá dài, gỗ màu vàng nhạt, có thớ đen. Đây là cây tạo ra trầm hương và kỳ nam sử dụng làm nước hoa và nhang, dược phẩm có giá trị cao. Gỗ trầm được sử dụng làm các đồ dùng gia dụng. Cây dó trầm hiện cũng đang được trồng để khai thác tại một số quốc gia như Lào và Việt Nam. Ở Việt Nam có 3 loài trầm gồm A. crassna , A. banaensae và A. baillonii , phân bố rải rác trong rừng rậm nhiệt đới thường xanh, mưa mùa, ẩm nguyên sinh thuộc các tỉnh Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, đặc biệt từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, đến Tây Nguyên, An Gia

Núi Jefferson (Oregon) – Wikipedia tiếng Việt

Núi Jefferson là một núi lửa dạng tầng không hoạt động ở vành đai núi lửa Cascade, dãy núi Cascade và là ngọn núi cao thứ nhì ở Oregon. Ngọn núi này nằm ở gốc viễn tây bắc của quận Linn, cách Corvallis 96 km về phía đông, Jefferson nằm ở trong một khu vực hoang dã và có địa hình lởm chởm và là ngọn núi lửa khó đến nhất trong dãy Cascade. Nhiều người coi hình thù lởm chởm và nhiều băng tuyết của ngọn núi này là hình ảnh đẹp ăn ảnh. Ngọn núi này thường được chọn làm phông nền cho các quảng cáo xe ô tô và rượu ở Mỹ. Đến nay, người ta ta vẫn chưa khẳng định dứt khoát liệu ngọn núi lửa này đang ngủ yên hay dừng hẳn luôn.